MỘT CON NGƯỜI UYÊN BÁC VÀ BÌNH DỊ
PGS.TS.TTND. Đại tá Nguyễn Kim Nữ Hiếu
Nguyên Phó giám đốc Bệnh viện TƯQĐ 108
Ngày 17/6/2014 tôi được
dự buổi Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Giáo sư. Thầy thuốc nhân dân, Anh hùng
quân đội, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doãn trong không khí trang nghiêm, ấp áp và
đầy tình cảm. Hôm đó, tuy thời gian ngắn ngủi, song tôi đã được gặp các thầy,
các bạn đồng nghiệp và các em học sinh của thầy qua các thế hệ. Tôi cũng được
nghe họ nói về thầy với cả tấm lòng trân trọng. Tất cả các thế hệ đều ghi nhận:
“Giáo sư Nguyễn Ngọc Doãn sống một cuộc sống nhân hậu, giản dị, trong sáng và
lạc quan yêu đời. Ông đã hết lòng tận tụy vì người bệnh, vì học trò và vì sự
phát triển của ngành quân y nói riêng và nền y học Việt Nam nói chung. Ông là
một người thầy thuốc giàu tài năng, đức độ, tận tình, một nhà khoa học uyên
bác, khiêm tốn và dễ gần gũi. Những đức tính quý báu đó khiến cho những người
đã tiếp xúc hoặc làm việc với ông, dù là đồng nghiệp, học sinh và thương binh,
bệnh binh đều kính yêu ông, coi ông như người cha, người bác trong gia đình”.
Vì vậy, tôi không giám viết nhiều, mà chỉ muốn kể lại một số mẩu chuyện về Giáo
sư.
Tháng 5/1965, tôi chuẩn
bị thi tốt nghiệp Bác sỹ ở Đại học y Hà Nội. Lúc đó, Đế quốc Mỹ bắt đầu chiến
tranh leo thang ra miền Bắc, thế là chúng tôi 100 sinh viên Y6 đều xung phong
nhập ngũ. Chúng tôi được phân công về các đơn vị quân đội. Cuối năm 1965, tôi
từ Viện quân y 109 được chuyển về đội điều trị 11, sau đó về Viện quân y 108.
Khi tôi về nhận công tác ở Viện, anh Nguyễn Ngọc Doãn đã là Viện Phó. Hồi đó
chúng tôi quen gọi là Anh, vì tất cả cán bộ còn trẻ và không nhiều, sống rất
gần gũi nhau, không có sự phân biệt, song rất tôn trọng nhau. Trong bài viết
này, tôi cũng xin được dùng từ Anh như cách xưng hô thân mật trước đây.
Những năm đầu về Bệnh
viện, từ năm 1966 đến đầu năm 1968, tôi làm việc ở Khoa A1 (Khoa cán bộ cao cấp
của Quân đội). Khi tình hình ở Hà Nội căng thẳng, tôi được phân công phụ trách
bệnh nhân của Khoa trên khu sơ tán ở huyện Lập Thạch – Vĩnh Phú. Khoa chúng tôi
cùng với Khoa A6 (Khoa không quân) nằm riêng trong một khu rừng lim rất rộng.
Toàn bộ các khoa nội – ngoại của Bệnh viện nằm ở bên cạnh khu rừng. Theo định
kỳ Anh Doãn thường lên điểm bệnh ở các khoa, đặc biệt ở Khoa cán bộ cao cấp.
Những bệnh nhân khó, nặng đều được tổ chức hội chẩn kịp thời. Chúng tôi, những
bác sỹ trẻ rất mong đến những ngày đó,
luôn chuẩn bị bệnh án chu đáo, tỷ mỷ để trình bầy với Anh. Biết Anh rất quan
tâm đến triệu chứng chủ quan, khách quan cũng như điều kiện, hoàn cảnh sinh
hoạt của bệnh nhân nên tôi đều tìm hiểu trước để trả lời. Anh lắng nghe báo cáo
của chúng tôi và nghe cả ý kiến của bệnh nhân sau đó mới thăm khám tỷ mỷ và đưa
ra những kết luận về chẩn đoán, điều trị, chế độ ăn uống, sinh hoạt. Với cách
khám đó, bệnh nhân cảm thấy rất thoải mái. Khi chiến tranh ngày càng khốc liệt,
có trường hợp bệnh đã khỏi nhưng không muốn ra viện. Tôi mạnh dạn báo cáo với
Anh để Anh biết tâm lý của bệnh nhân. Anh nói với tôi: “Khi đi điểm bệnh, cô
mang theo khay tiêm vô trùng và Vitamin B12 nhé!”. Tôi chưa hiểu ý Anh xong cứ
làm theo. Hóa ra khi đi khám, Anh khám tỷ mỉ, chu đáo, hỏi bệnh nhân đau ở đâu.
Khi Anh biết chính xác không có bệnh gì quan trọng, anh bấm huyệt cho bệnh nhân
và châm vào huyệt chỗ đau. Sau đó bác sỹ và bệnh nhân cùng cười. Từ đó rất ít
khi có trường hợp bệnh nhân đã khỏi mà vẫn ngại ra viện; hầu hết đều an tâm trở
về đơn vị công tác. Với sự chăm lo chu đáo cho bệnh nhân, cách khám bệnh, cách
hỏi bệnh, cách lập luận trong chẩn đoán và điều trị của các bác sỹ thời bấy giờ
như bác sỹ Nguyễn Ngọc Doãn, bác sỹ Bùi Đại, bác sỹ Phạm Tử Dương v.v là những
bài học đầu tiên của tôi khi bước vào nghề và theo tôi trong suốt cuộc đời để
làm trọn trách nhiệm và y đức của người Bác sỹ.
Tôi còn nhớ một mẩu
chuyện: vào năm 1967, chuẩn bị Đại hội Anh hùng Chiến sỹ thi đua toàn quốc. Ở
trên có đề nghị hai Bác sỹ Phạm Gia Triệu và Bác sỹ Nguyễn Ngọc Doãn làm bản
thành tích để phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Hôm đó Anh Doãn lên
Khu sơ tán, vì trời mưa nên hai anh em đứng ở vỉa hè dưới mái nhà tranh, tôi có
hỏi Anh: “Anh đã làm bản thành tích chưa?” Anh từ tốn trả lời tôi: “Cô biết
đấy, thời chiến cần chú ý đến các bác sỹ ngoại khoa nhiều hơn, nên lần này tôi
chưa làm và cũng cần tập trung cho Anh Triệu là nhà ngoại khoa tài năng xứng
đáng, như vậy sẽ tốt hơn”. Năm đó Anh Phạm Gia Triệu được phong Anh hùng lực
lượng vũ trang.
Năm 1972 tôi đi Chiến
dịch Quảng Trị theo diện B ngắn. Tôi đang lúng túng không biết sẽ gửi ai lĩnh
lương hộ để gửi về cho bố mẹ và chồng tôi. Anh Doãn nói với tôi: “Cô cứ viết
giấy là đề nghị để tôi lĩnh cho cô, tôi sẽ đưa về cho chồng và bố mẹ cô”. Thật
bất ngờ!, vì khi đó Anh là Viện phó và lại chưa đến nhà tôi lần nào mà lại trả
lời một cách bình dị như vậy. Anh luôn sẵn lòng giúp đỡ khi cán bộ dưới quyền
đang gặp lúng túng.
Ngày còn học ở trường Y,
những năm thứ nhất và thứ hai (1960- 1962) học những môn khoa học cơ bản. Chúng
tôi học rất chăm chỉ và hứng thú các môn đó vì hầu như đều được các thầy đầu
ngành giảng dạy. Các thầy đã truyền đạt cho chúng tôi những kiến thức cơ bản,
dạy chúng tôi cách học sao cho hiệu quả và luôn hun đúc cho chúng tôi lòng yêu
nghề. Trong những môn khoa học cơ bản, tôi hơi sợ môn Dược lý. Xong buổi đầu
tiên vào học, tôi thấy có một thầy cao to bước lên bục giảng, nét mặt hiền hòa
và mỉm cười chào mọi người. Thầy đã giảng cho chúng tôi ý nghĩa của việc học
môn Dược lý và đã có cả những câu chuyện về dược lâm sàng. Chúng tôi nghe rất
say xưa, người thầy đó là Nguyễn Ngọc Doãn. Kể từ ngày đó, chúng tôi không còn
sợ môn dược lý.
Anh Doãn rất mẫn cảm
trong việc chẩn đoán bệnh. Do đã nghe về bệnh sử và hai bàn tay thăm khám bệnh
nhân rất kỹ nên Anh mau chóng chẩn đoán đúng bệnh. Nhiều khi chúng tôi vẫn cười
với nhau: “Hai bàn tay của Anh như quả chuối mắn, sờ đến đâu là biết bệnh đến
đó”. Với các bệnh khó, không chỉ dựa vào cận lâm sàng mà phải dựa vào hỏi bệnh
và thăm khám tỷ mỉ. Thời đó làm gì có điều kiện xét nghiệm cận lâm sàng như bây
giờ, nên chúng tôi đã học được nhiều kinh nghiệm của các lớp đàn anh trong đó
có Anh Doãn.
Trong cuộc sống đời thường Anh Doãn quá giản dị, luôn đi
chiếc xe đạp cũ, mặc quần áo rộng và luôn hút thuốc lá. Có một lần vào buổi
trưa, Anh ngồi tự chấm sơn cho chiếc xe đạp bị tróc sơn. Tôi hỏi anh: “Sao Anh
không ra hiệu cho đẹp”, Anh nói: “Cái gì mình làm được thì cứ làm lấy vừa tiết
kiệm và cũng là niềm vui”. Câu nói đó của Anh giúp tôi thêm nghị lực trong công
việc sau này. Trong những năm thời bao cấp, tôi thường gặp Anh lững thững đi
đến cửa hàng “Nhà thờ” là cửa hàng dành cho cán bộ có bìa C để xếp hàng mua
thực phẩm. Có lần tôi xếp hàng trước nhìn thấy Anh lững thững đi vào, tôi chạy
ra nói với Anh đứng vào chỗ tôi, hoặc tôi mua hộ cho Anh. Song Anh: cứ bình
thản xếp hàng chờ đến lượt. Hành động đó của Anh, tôi cứ ngẫm ra và hiểu rằng
mình phải làm như vậy. Cũng từ đó tôi không bao giờ có ý nghĩ chen hàng và cứ
chờ bình thường rồi dần dần sẽ tới.
Năm nay chúng ta kỷ niệm
100 năm ngày sinh Anh Nguyễn Ngọc Doãn,
Anh ra đi đã 27 năm song hình ảnh của Giáo sư – Thầy thuốc nhân dân –
Anh hùng quân đội, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doãn vẫn còn ở trong lòng các đồng
nghiệp và bệnh nhân thân yêu. Tấm gương của thầy thuốc, thầy giáo, cuộc sống
giản dị chân thành, nụ cười thoải mái và một trí tuệ uyên bác, một người cha
hoàn hảo trong gia đình sẽ mãi mãi để các thế hệ noi theo.
Hà Nội, ngày 17/6/2014
PGS.TS.TTND. Đại tá Nguyễn Kim Nữ Hiếu
Nguyên Phó giám đốc Bệnh viện TƯQĐ 108
Bác sỹ Nguyễn
Kim Nữ Hiếu trong Chiến dịch Quảng Trị - 1972